Tài chính xanh ngày càng được quan tâm và áp dụng rộng rãi. Trong đó, liên quan đến việc sử dụng tài nguyên tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường.
Theo thống kê, từ năm 2019 – 2023, Việt Nam đã phát hành trái phiếu xanh được 1,157 tỷ USD. Đến nay, thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đã định hình nền tảng và phát triển với 3 cấu phần, gồm: thị trường tín dụng xanh; thị trường cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh.
Bộ Tài chính đã phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện khung khổ pháp lý về trái phiếu xanh. Trên thị trường có các sản phẩm trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương phục vụ cho các dự án/công trình “xanh” như: thủy lợi, bảo vệ môi trường, điện gió, năng lượng mặt trời.
Lý do quan trọng nhất tại sao cần xây dựng chế chính sách thúc đẩy tài chính xanh là để giải quyết các vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu. Theo đó, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nhanh chóng với nền kinh tế đang được mở rộng. Tuy nhiên, sự phát triển không bền vững đã gây ra nhiều vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí, nước và đất đai. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nguy cơ biến đổi khí hậu, gây ra hậu quả nghiêm trọng như tăng mực nước biển, hạn hán và thiên tai.
Bằng cách thúc đẩy tài chính xanh, nước ta nên hướng đến sự phát triển kinh tế bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Chính sách tài chính xanh có thể khuyến khích đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo và hợp lý, như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện và năng lượng sinh khối. Đồng thời, nó cũng có thể hỗ trợ các dự án và hoạt động có ảnh hưởng tích cực đến môi trường, chẳng hạn như quản lý nước, chất thải và vận chuyển công cộng.
Trong cơ chế chính sách tài chính xanh có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ và quản lý tài chính. Từ đó, việc hỗ trợ các dự án và doanh nghiệp có tiềm năng tài chính xanh không chỉ tạo cơ hội kinh doanh mới mà còn thúc đẩy sự chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh hơn. Ngoài ra, công tác xây dựng chính sách tài chính xanh cũng sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và thu hút các nguồn vốn quốc tế vào Việt Nam.
Một yếu tố quan trọng khác là vai trò của Chính phủ trong việc xây dựng chính sách tài chính xanh. Vậy nên, Chính phủ có thể đưa ra những cơ chế khuyến khích và các quy định để thúc đẩy hoạt động đầu tư và sử dụng tài nguyên lĩnh vực này. Điều này có thể bao gồm việc xây dựng các quy định về tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững, đồng thời tạo ra các khoản tài trợ và ưu đãi thuế cho các dự án tài chính xanh.
Ngoài ra, việc xây dựng chính sách tài chính xanh cũng có thể tạo ra một sự thay đổi văn hóa trong cộng đồng kinh doanh và xã hội. Bằng cách tạo ra nhận thức về tầm quan trọng của tài chính xanh và khuyến khích các hành vi và lựa chọn tài chính có trách nhiệm, chính sách này có thể góp phần xây dựng một xã hội và một nền kinh tế có ý thức về môi trường.
Với tình hình hiện tại, Việt Nam đang có những bước tiến nhất định trong việc thúc đẩy tài chính xanh, nhưng vẫn còn nhiều công việc cần được thực hiện. Chính phủ cần đẩy mạnh việc nghiên cứu và xây dựng các chế định pháp luật và quy định hỗ trợ tài chính xanh. Đồng thời, cần thiết phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp và cộng đồng để thúc đẩy việc triển khai chính sách này.
Theo các chuyên gia, việc xây dựng chế chính sách thúc đẩy tài chính xanh sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho môi trường và sự phát triển bền vững của Việt Nam mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh mới và thu hút đầu tư trong lĩnh vực tài chính xanh. Từ đó, sẽ giúp nước ta trở thành một quốc gia tiên phong trong việc xây dựng nền kinh tế xanh và góp phần vào sự phát triển toàn diện và bền vững của khu vực và thế giới.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cần tới 368 tỷ USD để hướng tới cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Việt Nam là một trong các quốc gia đã có những hành động nhanh, kịp thời khi ban hành Chiến lược quốc gia tăng trưởng xanh, về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc triển khai các hướng dẫn cụ thể vẫn còn chậm trễ.
Theo ông Thomas J. Jacob, Giám đốc Quốc gia Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Khu vực Việt Nam, Lào & Campuchia: “Hiện giờ vẫn thực sự khó khăn nếu nói dự án nào là dự án xanh hay không xanh khi chưa có danh mục chung. Nếu có khuôn khổ pháp lý và một bộ tiêu chí cụ thể sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn và giúp các ngân hàng có kế hoạch đa dạng các sản phẩm tài chính xanh, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu xanh. Quá trình nào cũng cần 1 thời gian dài để thực hiện”.
Theo chuyên gia, giải pháp cấp bách trước mắt là cần sớm ban hành danh mục dự án xanh quốc gia, để cả doanh nghiệp và ngân hàng, cùng nhìn vào đó, soi chiếu các tiêu chí xanh trước khi cấp vốn cho vay. Tính đến cuối tháng 6, mới có khoảng 528 nghìn tỷ đồng vốn được cho vay các dự án xanh, chỉ chiếm khoảng 4,2% trong tổng dư nợ nền kinh tế.
Tóm lại, việc xây dựng chế chính sách thúc đẩy tài chính xanh là một nhiệm vụ quan trọng đối với Việt Nam. Nó không chỉ giúp giải quyết các vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh mới và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Chính phủ, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp và cộng đồng cần hợp tác chặt chẽ để triển khai và thực hiện chính sách này, với mục tiêu xây dựng một Việt Nam xanh và phát triển bền vững.
Hình ảnh KNM (Nguồn Tạp chí Doanh nghệp hội nhập)